Nền văn học cách mạng Việt Nam được Bác Hồ đặt nền móng từ những năm đầu thế kỷ 20 và có bước phát triển rực rỡ từ sau các mạng tháng 8/ 1945, đặc biệt là trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Đó là thành tựu to lớn và phong phú cả về nội dung, tư tưởng, nghệ thuật và đội ngũ sáng tác . Những tác phẩm văn học kết tinh tài năng , tâm huyết của nhiều thế hệ nhà văn đã đi vào ký ức của hàng triệu người Việt Nam , góp phần nuôi dưỡng vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách con người Việt Nam, làm giàu có thêm những giá trị văn hóa Việt Nam mà ông cha ta đã dày công xây dựng . Tập đại thành văn học cách mạng và kháng chiến là bức tượng đài kỳ vĩ ghi lại diện mạo đất nước và con người Việt Nam về một thời kỳ vĩ đại của dân tộc , đưa tiến trình hiện đại hóa văn học lên một tầm cao mới.
Nhằm tôn vinh những đóng góp to lớn vào nền văn học cách mạng , Đảng và Nhà nước quyết định trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước cho các tác phẩm văn học xuất sắc. Tiếp theo bộ sách văn học được Giải thưởng Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Văn học xuất bản . Nhà nước đã quyết định giao cho Hội Nhà văn Việt Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn thực hiện dự án ""Công bố và phổ biến các tác phẩm vă học được Giải thưởng Nhà nước .
Nhà văn Lý Văn Sâm sinh ngày 17 tháng 02 năm 1921, tại làng Tân Nhuận, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc xã Bình Long, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), còn có tên là Đào Lê Nhân. Từ nhỏ ông rất ham học và được gia đình cho học nhiều trường từ Pétrus Ký đến Quốc học Huế. Thế nhưng, chuyện học hành của ông bị dở dang với nhiều nguyên do.
Năm 1941, đánh dấu sự xuất hiện của nhà văn Lý Văn Sâm trên văn đàn với truyện ngắn Cây nhị sông Phố đăng trên Tiểu thuyết Thứ bảy, những truyện đường rừng đầu tiên của một nhà văn miền Nam. Sau đó nhiều sáng tác của nhà văn được các báo trong Nam ngoài Bắc đăng tải.
Năm 1945, ông gia nhập Thanh niên Tiền phong, tham gia cướp chính quyền ở địa phương, là cán bộ Ty Tuyên truyền Biên Hoà. Năm 1946, ông bị địch bắt trong một trận càn, bị giam một thời gian. Sau đó, ông được thả và lên Sài Gòn sống bằng nghề làm báo, viết văn. Ông tham gia tích cực trong hoạt động của phong trào "Báo chí thống nhất", viết cho các báo Việt Bút, Tiếng chuông, Lẽ sống, Bình minh, vừa làm việc cho công an đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
Năm 1949, nhà văn Lý Văn Sâm bị bắt trong khi đang làm quản lý cho tờ Cộng đồng. Năm 1950, ra khỏi nhà giam, ông vào chiến khu, công tác ở Ban sưu tập Phân liên khu miền Đông. Sau hiệp định Genève (tháng 7 năm 1954), ông được phân công về thành hoạt động hợp pháp trên mặt trận văn nghệ, báo chí.
Tháng 11 năm 1955, ông bị địch từng bị địch bắt giam tại Trung tâm cai huấn Biên Hòa. Tại đây, ông tham gia cuộc vượt ngục, phá khám Tân Hiệp vào ngày 02 tháng 12 năm 1956 tại Biên Hòa.
Từ 1956 đến năm 1958, nhà văn Lý Văn Sâm làm chánh văn phòng Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang tỉnh Thủ Dầu Một, Trưởng đoàn Văn công miền Nam, chủ bút báo Chiến thắng của Quân giải phóng miền Nam. Năm 1959, ông công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, lần lượt giữ các chức vụ: Chính trị viên Đoàn Văn công giải phóng, thư ký toà soạn báo Văn nghệ giải phóng, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật Bộ Văn hoá Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Tổng thư ký đầu tiên của Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam.
Sau ngày miền Nam giải phóng, ông được bầu làm Phó tổng thư ký Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, đại biểu Quốc hội khoá VI, uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Văn nghệ Đồng Nai.
Trong sự nghiệp văn chương, nhà văn Lý Văn Sâm đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị như: Kòn Trô (1941), Nắng bên kia làng (1948), Sương gió biên thuỳ (1948), Mười lăm năm hận sử (1949), Sau dãy Trường Sơn (1949), Bức chân dung (1983), Bến xuân (1985), Ngàn sau sông Dịch (1988).
Tác phẩm Kòn Trô và Sương gió biên thùy là những "truyện đường rừng" độc đáo, lãng mạn, trữ tình, đẫm chất anh hùng ca lấy bối cảnh, nhân vật thuộc về vùng rừng núi miền Đông Nam Bộ. Hai tác phẩm này được Hãng phim truyền hình thành phố Hồ Chí Minh chuyển thể kịch bản, dựng phim và công chiếu. Nhà văn sống những ngày cuối đời tại thành phố Hồ Chí Minh và mất năm 2000. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2006.